Vùng Đông Giang và Tây Giang ngày nay, cách biên giới Lào khõang 25 cây số đường chim bay, bên kia biên giới là căn cứ địa 607 nơi tập trung 3 sư đòan chánh quy Cộng Sản Bắc Việt tung vào mặt trận Thường Đức 1974, từ tọa độ này cộng quân Nam tiến di chuyển về Khâm Đức và Kontum và khởi nguồn cho cuộc tấn công vào cao nguyên vào tháng 3 năm 1975. Sau đó chiếm tòan bộ Miền Nam, nơi đây từng là vùng họat động của 3 đòan Công tác 11, 71, và 72 của Sở Công Tác NKT/BTTM/QLVNCH vào những năm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam.
Duong vào Lang
Dong Giang Ngay Nay
Dong Giang Phan 3
Ngôi làng xa xôi nhất của xứ Quảng
Về thăm ngôi làng xa xôi nhất xứ Quảng
Thứ Bảy, ngày 17/03/2012 10:00 AM (GMT+7)
Từ chân cầu A Vương, phải đi bộ vượt suối, vượt đồi ròng rã cả ngày mới đến được ngôi làng tên Aur, gần như biệt lập nhất xứ Quảng này. Làng nằm tận rừng sâu, núi thẳm nhưng hiếu khách vô cùng.
Từ Đà Nẵng, bạn sẽ đi ngược lên Tây Giang theo tỉnh lộ 604, đến chân cầu A Vương bắt đầu vượt hơn 20 km đường rừng, băng qua đồi, qua núi, qua những con suối mới đến được làng Aur mới. Một cung đường vắt đến kiệt sức để cảm nhận được vẻ hùng vỹ của núi rừng Trường Sơn, cảm nhận sự mến khách vô cùng của những người dân của ngôi làng xa xôi nhất xứ Quảng. Đi về hình ảnh đọng lại trong chúng tôi là cứ đến những bữa cơm lại thấy bóng dáng những chị trên tay là một cái mâm trên đó bày một thau cơm và một tô canh nóng nổi tỏa ra từ khắp làng..
Chúng tôi quyết định tìm đến làng Aur cho những ngày nghỉ cuối năm sau khi đọc được bài báo viết về làng của nhà báo Thanh Hải. Nhưng ngôi làng bài báo viết hiện đã bỏ hoang, dân làng chỉ đem dụng cụ sinh hoạt theo còn tất cả nhà cửa đều còn nguyên ở đó. Sau một đêm nghỉ ngơi ở làng Arec, sáng sớm chúng tôi khăn gói lên đường tiến vào làng Aur mới khi trời còn đẫm hơi sương.
Vượt qua bốn con suối lớn và những con dốc đất, đường đi nhỏ xíu rất khó đi, bên dưới là vực thẳm cheo leo đến trưa chúng tôi đến được ngã ba dẫn lên làng Aur cũ. Nghỉ ngơi và ăn uống bên một dòng suối trong vắt, hiền hòa, thi thoảng gặp những người dân làng gùi những gùi sâm ba kích nặng trĩu đem ra đường bán. Không như những dân tộc ở những vùng xa xôi, tận hang sâu núi thẳm người Cơtu ở làng Aur nói tiếng Kinh rất dễ nghe và đặc biệt vô cùng thân thiện.
Vượt qua bốn con suối lớn và những con dốc đất, đường đi nhỏ xíu rất khó đi, bên dưới là vực thẳm cheo leo đến trưa chúng tôi đến được ngã ba dẫn lên làng Aur cũ. Nghỉ ngơi và ăn uống bên một dòng suối trong vắt, hiền hòa, thi thoảng gặp những người dân làng gùi những gùi sâm ba kích nặng trĩu đem ra đường bán. Không như những dân tộc ở những vùng xa xôi, tận hang sâu núi thẳm người Cơtu ở làng Aur nói tiếng Kinh rất dễ nghe và đặc biệt vô cùng thân thiện.
Nửa phần đường còn lại chúng tôi phải đối mặt với vô vàn những con đường đất trơn nhão do đêm trước trong này mưa nên đường còn ướt, làm mất sức hơn rất nhiều. Nhiều bạn bị vắt lá cắn máu chảy qua tới ngày hôm sau mới hết. Đoạn này chúng tôi vừa đi vừa mong cho sớm được tới làng khi mà đôi chân đã không còn chút sức lực nào để bước. Gần như là đi theo quán tính, đến khi gặp lại những người dân làng sáng nay đã gặp trên đường đi thì mới biết đã gần tới làng. Bước chân bắt đầu bước nhanh hơn, qua được con suối cuối cùng chúng tôi đến được làng Aur mới yên bình nằm giữa hai dòng suối.
Bạn đến làng chơi sẽ được cả làng nhà nào cũng nấu cơm, canh đãi bạn. Một năm trước, làng Aur còn tọa lạc trên một ngọn đồi cao, mây trắng phủ quanh năm. Hiện nay do đời sống du canh du cư và một vài lý do tín ngưỡng dân làng dời vô tận rừng sâu núi thẳm. Làng Aur được bao quanh bởi con suối mát trong, hiền hòa. Hiện làng có 20 mái nhà, sau bao đời du canh du cư thì vị thế làng mới được cho là lý tưởng nhất để sống và canh tác.
Bạn đến làng chơi sẽ được cả làng nhà nào cũng nấu cơm, canh đãi bạn. Một năm trước, làng Aur còn tọa lạc trên một ngọn đồi cao, mây trắng phủ quanh năm. Hiện nay do đời sống du canh du cư và một vài lý do tín ngưỡng dân làng dời vô tận rừng sâu núi thẳm. Làng Aur được bao quanh bởi con suối mát trong, hiền hòa. Hiện làng có 20 mái nhà, sau bao đời du canh du cư thì vị thế làng mới được cho là lý tưởng nhất để sống và canh tác.
Già làng Ating Avy ở làng Aur.
Những chiếc quan tài “biết nói” trong bản làng bị bỏ rơi giữa rừng hoang
Nhìn vào đám tang, thấy chiếc quan tài gỗ- dù chỉ là người lạ ngang qua làng- cũng biết rõ nhân cách của vong linh đó khi họ còn sống. Quan niệm của dân làng là phải cụ thể hóa, phơi bày “nhân cách” của con người này qua cái quan tài để công khai thiên hạ biết rõ.
Việc làm này không nhằm mục đích hạ uy tín, miệt thị người quá cố, mà ý nghĩa sâu xa là giáo dục cho thế hệ sau, những người còn song: Rằng, anh (chị) phải sống như thế nào để khi chết đi còn làm rạng danh cho gia tộc, làng nước, đừng để người đời phỉ nhổ…
Làng treo giữa núi
Theo lời kể của Bí thư huyện miền núi Tây Giang, Quảng Nam - ông Briu Liếc- thì làng Aur thuộc xã A Vương như một huyền thoại sinh động về sự minh triết dung dị với những phong tục, tập quán lâu đời còn “trinh nguyên”. Chúng tôi thuê người, cắt đường, vượt núi để đến bản làng bị thất lạc, “bỏ rơi” giữa rừng hoang Trường Sơn.
Sau những ngày mưa rừng như trút nước, con đường mòn dẫn xuyên rừng A Vương, ngược lên hướng Bắc của huyện Tây Giang, Quảng Nam ra đến TT-Huế gần như đã mất dấu tích đến nỗi ngay cán bộ giao liên xã A Vương - anh Bliêng ĐHơn cũng nhiều lúc đi nhầm lối. Bliêng ĐHơn mỗi ngày phải bương rừng vài vạn bước để liên lạc đến các bản làng, nhưng suốt 4 năm công tác cũng chỉ đến Aur lần thứ 2. Cũng chính sự xa xôi, cách trở này mà rừng núi vẫn còn những nét nguyên sơ với những cánh rừng dày đặc cây cổ thụ, những khe nước với thác ghềnh hùng vỹ, thiên nhiên hoang sơ đầy kỳ thú.
Làng Aur chỉ vỏn vẹn 14 hộ, 87 khẩu với 100% là người Cơ Tu. Làng nằm hẻo lánh giữa rừng già, giao thông chỉ là lối mòn, hiểm nguy vắt qua nhiều đèo cao, vách núi cheo leo nên hầu hết chưa có người dân làng nào được về đồng bằng. Theo chính quyền huyện Tây Giang, những người dân này nguyên sinh sống thượng nguồn sông Hương, TT-Huế. Do nhiều đời thay rẫy du canh, người dân di cư đến vùng đất mới, nhiều năm như vậy nên đã “dạt” về với đất Quảng Nam - Đà Nẵng. Trước đây, họ sống gần như biệt lập với cộng đồng. Sau giải phóng 1975, ranh giới hành chính được đo đạc, xác lập cụ thể. Tính từ đỉnh núi Aur, con nước chảy về phía đông-bắc là địa phận của TT-Huế, còn xuôi về hướng đông-nam là địa hạt của Quảng Nam - Đà Nẵng.
Lúc ấy, người dân làng Aur buộc phải dời về quê cũ là huyện A Lưới. Nhưng vốn là tộc người sống trên núi cao, quen biệt lập với cộng đồng, lại có những luật tục về tổ chức làng rất chặt chẽ nên họ đã không thể hoà đồng với miền xuôi, với việc thay tên đổi họ, số hoá tên làng... Ngay sau đó, dân Aur tự kéo nhau về làng cũ. Thời gian đầu sau giải phóng, công cuộc kiến thiết còn bộn bề, làng Aur lại bị bỏ quên từ đó.
Làng ở tận đầu con nước Mơ Răng, thượng nguồn của dòng A Vương, chưa từng có điện, đường, trường, trạm y tế, không có sóng phát thanh, truyền hình. Aur không xuất hiện trên bản đồ hành chính. Mãi đến tháng 9.2003, khi thành lập huyện mới Tây Giang, Quảng Nam, huyện này mới “phát hiện lại” Aur và quyết định nhận làm con dân của địa phương, "nâng" làng hoang Aur thành đơn vị thôn, thuộc xã A Vương.
Nhìn quan tài biết nhân cách
Câu chuyện những chiếc quan tài biết nói của người Cơ Tu ở làng Aur đã cuốn hút, khiến chúng tôi dặm xa vượt rừng tìm đến với họ. Tuy vậy, còn rất hiếm hoi những người già Cơ Tu còn biết tường tận về câu chuyện này. Già làng Ating Avy kể, từ bao đời, chúng tôi sống giữa rừng với nghề săn bắt, hái lượm, tự cung tự cấp nên không được tiện ích như người miền xuôi. Vì vậy cũng có những luật tục đặt riêng cho mình để thích nghi.
Ví như, khi ở làng có người chết, chúng tôi không đi xem bói như người Kinh, gia tộc cũng không phải nghe theo thầy cúng để quyết định là kéo dài lễ viếng bao nhiêu ngày, mà là thuộc vào di nguyện của họ. Bởi lẽ hung tin truyền miệng lâu hơn thời đại Internet, điện thoại di động.
Và hơn ai hết, chính những người dân ở đây biết rõ, khi mình chết, thông tin phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi đồi, bao khe suối mới đến được người thân. Họ phải mất bao lâu thời gian để đến thăm viếng lần cuối. Đó chính là thời gian kéo dài tang lễ. Chưa kể có những mối tình vụng trộm, con rơi ở một nơi xa nào đấy... thì chỉ có chính người đó mới biết được chính xác là cần bao nhiêu ngày.
Làng Aur còn hoang sơ giữa đại ngàn Trường Sơn. |
Điều khác biệt so với các tộc người miền núi khác và cả người Kinh là việc đóng quan tài. Quan tài dành cho người chết ở làng được đóng bằng gỗ gì, không phải do gia tộc quyết định, mà là do hội đồng làng. Nếu người quá cố nguyên là người sống tốt, sẽ được làng tổ chức đóng quan tài bằng loại gỗ quý, sắc màu hồng, đỏ, rực rỡ. Còn với người sống "chẳng ra gì", quan tài là loại cây khộp, chưa bỏ xuống đất đã bị mối, mọt ăn. Thêm một "loại người" khó hiểu, sẽ có quan tài bằng gỗ… mù u, đường vân rối rắm… Vì vậy, dẫu là người lạ ngang qua làng, chỉ nhìn vào chiếc quan tài vẫn biết ngay rằng, người nằm trong kia sinh thời đã sống thế nào...
Những quy định ấy không có nghĩa hạ uy tín, nhục mạ người quá cố mà chỉ nhằm mục đích chính là giáo dục, để cho mỗi người trong làng biết phải sống như thế nào, để đến khi chết không làm họ tộc, con cháu “bỉ mặt” với thiên hạ, khi sống phải biết giữ mình, sống tốt để được tiếng thơm cho bản thân, gia đình, dòng tộc và cả khi chết đi cũng không mang tiếng nhơ. Nhưng mỹ tục ấy cũng chỉ là ánh hồi quang của tộc người Cơ Tu miền núi cao, bây giờ ít nhiều đã mai một, rất ít làng còn giữ nguyên vẹn.
Nhưng đây cũng chính là những điều mà Bí thư huyện miền núi Tây Giang, Quảng Nam - ông Briu Liếc luôn tự hào còn giữ được tương đối nguyên vẹn bản sắc dân tộc thiểu số của mình. Ông cho rằng, khi đường tốt băng băng qua làng, ô tô có thể đến tận ngóc ngách các xã vùng cao thì điều tự hào ấy sẽ dần mất đi. Nhiều làng, người ta lợp nhà Gươl (nhà sinh hoạt cộng đồng) bằng tôn kẽm, xây nhà mồ bằng bê tông cốt thép. Những nét tinh hoa về kiến trúc, xây dựng, những thuần phong mỹ tục, những tập quán mang đầy tính giáo dục, nhân văn, sự minh triết đã dần phai theo thời gian, mất theo việc hoà nhập với đồng bằng.
Ông Briu Liếc tâm sự, nhiều lúc cảm thấy mình bị phân thân. Vui vì kinh tế phát triển, sinh hoạt đời sống của bà con ngày càng tiện ích, hiện đại thêm. Nhưng cũng buồn vì những nét văn hoá đặc sắc, phải nhiều đời hình thành mới có được, giờ lại bị phai mờ.
Anh Chung Tử Bửu là niên trưởng về phi đoàn 219 trước tôi rất lâu. Lúc hành quân Lam Sơn 719&720 đang diễn ra khốc liệt trên đất Hạ Lào, tôi còn đang ở trường bay UH1, Ford Hunter(GA)chuẩn bị về nước. Khi tôi mãn khoá về nước thì hành quân Lam Sơn cũng vừa chấm dứt nên không được vinh dự tham gia hành quân cùng các niên trưởng và các bạn trong phi đoàn! Có nhiều phi hành đoàn của PĐ 219 tham gia hành quân Lam Sơn nhưng tôi được biết(sau khi về phi đoàn) chỉ có 2 Phi hành đoàn của anh Bửu và anh Giang là bị lâm nạn và bị địch bắt khi vào đồi 31 mà thôi. Sau này, vào đầu năm 1973, tôi bị rớt và bị bắt trong một phi vụ tản thương cho Sư Đoàn Dù ở vùng rừng núi phía tây Trị Thiên. Lúc đầu tôi và 11 anh sĩ quan khác (trong đó có anh Quan và Á) bị đưa ra nhốt chung với các anh em hạ sĩ quan và binh sĩ(hầu hết là thủy quân lục chiến, nhảy dù và một ít sư đoàn I, v.v...) ở Quãng Bình, Nghệ An. Vì nhóm sĩ quan chúng tôi thường xuyên vừa ngấm ngầm tổ chức tuyên truyền chính trị, vừa ra mặt cầm đầu anh em trong trại chống đối việt cộng nên cuối cùng đến khoảng tháng 2 hay 3 năm 1975 việt cộng đưa nhóm sĩ quan chúng tôi ra nhốt chung với anh em tù Hạ Lào ở Yên Bái cho đến ngày về Nam. Chính ở trại tù Yên Bái này tôi mới có nhiều kỷ niệm nhất và tôi được gặp nhiều anh em tù cũ mới(trước và sau năm 1975). Trong số này có các niên trưởng thuộc Bộ Chỉ Huy của Lữ Đoàn Dù của Đại Tá Thọ, Trung Tá Châu(pháo binh Dù), Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng(Sư Đoàn I mà tôi quên tên), anh Bửu, anh Khánh, anh On(PĐ 219/trước 1975), anh Nghĩa, anh Sâm(PĐ 219/sau 1975), v.v...
ReplyDelete